Quốc hội chính thức thông qua Luật Doanh nghiệp (sửa đổi)

Thong Qua Luat Doanh Nghiep

Tiếp tục Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV, sáng ngày 17/6, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển, Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Doanh nghiệp (sửa đổi).

Kết quả cho thấy 90,68% đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành với việc thông qua Luật Doanh nghiệp (sửa đổi). Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển nêu rõ: Với đa số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, Quốc hội chính thức thông qua Luật Doanh nghiệp (sửa đổi).

Trước đó, báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) do Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày nêu rõ: Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội đã thảo luận tại Hội trường về dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi). Trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội (ĐBQH), ý kiến các cơ quan của Quốc hội và Báo cáo số 291/BC-CP ngày 12/6/2020 của Chính phủ về việc giải trình, tiếp thu ý kiến ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra, Cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật.

Về thông báo mẫu dấu của doanh ngiệp (Điều 43): Một số ý kiến đồng ý việc bỏ thủ tục thông báo mẫu dấu với Cơ quan đăng ký kinh doanh; một số ý kiến khác đồng ý giữ quy định yêu cầu phải thông báo mẫu dấu cho Cơ quan đăng ký kinh doanh như quy định của Luật hiện hành. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã gửi phiếu xin ý kiến các vị đại biểu Quốc hội. Trên cơ sở đa số ý kiến ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu không quy định thủ tục thông báo mẫu dấu với Cơ quan đăng ký kinh doanh trong dự thảo Luật.

Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Doanh nghiệp (sửa đổi).

Về hộ kinh doanh (Chương VIIa): Một số ý kiến đồng ý với việc quy định một chương về hộ kinh doanh trong dự thảo Luật; một số ý kiến khác đồng ý xem xét, ban hành một luật riêng về hộ kinh doanh. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã gửi phiếu xin ý kiến các vị đại biểu Quốc hội. Trên cơ sở đa số ý kiến ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu theo hướng bỏ quy định tại Chương VIIa về hộ kinh doanh; bỏ quy định về chuyển hộ kinh doanh thành doanh nghiệp (Điều 199a). Đồng thời, để bảo đảm tính liên tục cho đến khi ban hành một luật riêng về hộ kinh doanh, cần thiết giao Chính phủ hướng dẫn đăng ký và hoạt động đối với hộ kinh doanh (khoản 4 Điều 217 quy định về điều khoản thi hành).

Về doanh nghiệp nhà nước (Điều 88): Một số ý kiến cho rằng khái niệm doanh nghiệp nhà nước như tại dự thảo Luật (doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ) là chưa phù hợp. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước đã thay đổi liên tục, không bảo đảm tính nhất quán, tác động đến cách thức quản lý của các doanh nghiệp, tạo ra sự khác biệt trong cách thức quản lý với các doanh nghiệp khác.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Quy định Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết như dự thảo Luật nhằm thể chế hóa chủ trương về tỷ lệ cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước theo Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN (Nghị quyết số 12). Dự thảo Luật đã sửa đổi khái niệm doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc phân chia các loại doanh nghiệp có sở hữu nhà nước theo mức độ sở hữu khác nhau, mỗi loại hình doanh nghiệp có quy định về tổ chức quản trị phù hợp để nâng cao hiệu lực quản trị, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, bảo đảm bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.

Ngoài ra, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo việc rà soát các luật có liên quan về DNNN để bảo đảm đồng bộ trong hệ thống pháp luật, có hiệu lực thi hành cùng Luật Doanh nghiệp (sửa đổi). Do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này như dự thảo Luật đã được hoàn thiện, chỉnh lý trình Quốc hội thông qua. Có ý kiến cho rằng, cổ phần chi phối là phải quyết định được những vấn đề trọng yếu của doanh nghiệp. Do đó, đề nghị doanh nghiệp nhà nước phải có cổ phần chi phối của Nhà nước đạt 65% thì mới là doanh nghiệp nhà nước.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Nội hàm “bảo đảm Nhà nước nắm giữ phần vốn góp hoặc cổ phần chi phối” tại khái niệm DNNN bám sát quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết số 12. Quy định này nhằm mục đích kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả hơn việc sử dụng vốn Nhà nước trong các DNNN. Việc nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ đã bảo đảm quyền chi phối trực tiếp việc ra các quyết định thông thường (chỉ yêu cầu tỷ lệ trên 50%) và chi phối gián tiếp (phủ quyết) việc ra một số các quyết định khác (yêu cầu tỷ lệ 65%) của doanh nghiệp đó. Đồng thời, tỷ lệ này cũng phù hợp với với các cam kết, thông lệ quốc tế. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho giữ quy định này như dự thảo Luật.

Về quyền của cổ đông phổ thông (Điều 115): Có ý kiến cho rằng, không nên quy định giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông phổ thông. Việc giảm tỷ lệ sở hữu của cổ đông phổ thông sẽ dẫn đến có nhiều cổ đông nhỏ được can thiệp vào hoạt động quản trị, điều hành sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó có thể ảnh hưởng đến việc bảo mật thông tin của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để bảo đảm quyền lợi của cổ đông nhỏ lẻ, đề nghị quy định trong dự thảo Luật về trách nhiệm công khai thông tin của cổ đông.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Việc quy định cổ đông có tỷ lệ sở hữu cổ phần phổ thông thấp hơn được thực hiện các quyền quy định tại dự thảo Luật là nhằm bảo vệ quyền của cổ đông thiểu số và nhóm cổ đông trong doanh nghiệp. Đây là nội dung quan trọng quy định về khung quản trị doanh nghiệp. Việc quy định theo hướng trên cũng sẽ góp phần quan trọng trong thu hút các nguồn lực đầu tư vào doanh nghiệp. Tuy nhiên, để phù hợp và thống nhất với khái niệm cổ đông lớn quy định trong Luật Chứng khoán, mức tỷ lệ sở hữu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông để thực hiện một số quyền của cổ đông phổ thông cần bảo đảm hài hòa quyền, lợi ích hợp lý của các cổ đông thiểu số, nhóm cổ đông trong doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, tránh sự thay đổi quá lớn, có thể gây khó khăn trong quản trị, quản lý bí quyết công nghệ, kinh doanh của doanh nghiệp; phù hợp với thực trạng quản trị và bối cảnh của nước ta, tương thích với mức tỷ lệ phổ biến ở nhiều nước. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho giữ quy định này như dự thảo Luật về tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông phổ thông là 5%.

Có ý kiến đề nghị không nên bỏ quy định về điều kiện thời gian cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu tỷ lệ cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng như quy định của Luật hiện hành để bảo đảm việc thực hiện các quyền của cổ đông không làm ảnh hưởng đến việc điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường của doanh nghiệp.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Việc bãi bỏ quy định về thời gian sở hữu “ít nhất 06 tháng liên tục” nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của các cổ đông. Thực tế, nhiều trường hợp các nhà đầu tư đã mua lượng cổ phần rất lớn trong doanh nghiệp nhưng do chưa đáp ứng được quy định về thời gian sở hữu ít nhất 06 tháng liên tục, do đó đã không thực hiện được quyền và lợi ích chính đáng của mình. Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho giữ quy định này như dự thảo Luật.

Về chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty không đại chúng (Điều 128): Có ý kiến đề nghị làm rõ đối tượng được mua và chuyển nhượng trái phiếu chỉ giới hạn cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp hay cần mở rộng cho cả nhà đầu tư cá nhân hoặc tổ chức khác.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Thị trường trái phiếu doanh nghiệp thời gian vừa qua có sự phát triển nhanh và chuyển dịch dần kênh huy động vốn từ tín dụng ngân hàng sang phát hành trái phiếu doanh nghiệp, tuy nhiên còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt khi các nhà đầu tư cá nhân nhỏ, lẻ đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ có ít thông tin và khả năng phân tích, đánh giá rủi ro hoặc khi các doanh nghiệp lạm dụng, triển khai các hình thức huy động vốn trái phiếu thiếu minh bạch sẽ gây rủi ro cho các nhà đầu tư.

Để hạn chế rủi ro cho các nhà đầu tư mua trái phiếu và hạn chế doanh nghiệp lạm dụng phương thức này huy động vốn, pháp luật thường hạn chế đối tượng mua trái phiếu riêng lẻ là các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và giới hạn việc chuyển nhượng trái phiếu riêng lẻ giữa các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Quy định hạn chế này không ảnh hưởng đến quyền của các nhà đầu tư khác không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và lợi ích của doanh nghiệp vì doanh nghiệp hoàn toàn có thể phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động vốn từ nhà đầu tư chứng khoán không chuyên nghiệp. Nhà đầu tư chứng khoán không chuyên nghiệp có thể ủy thác đầu tư trái phiếu riêng lẻ thông qua nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Do vậy, dự thảo Luật quy định đối tượng được mua và chuyển nhượng trái phiếu chỉ giới hạn cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cần thiết, phù hợp với Luật Chứng khoán và thông lệ phổ biến.

Có ý kiến cho rằng, dự thảo Luật bỏ một số điều kiện về chào bán trái phiếu riêng lẻ như: phương án phát hành trái phiếu được cấp có thẩm quyền phê duyệt và chấp thuận; đáp ứng quy định về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài; các đợt phát hành trái phiếu chuyển đổi phải cách nhau ít nhất 06 tháng; thời hạn nắm giữ tối thiểu để được chuyển nhượng. Do đó, đề nghị làm rõ quy định tại điểm d khoản 3 Điều 128 về các điều kiện khác theo quy định của pháp luật có liên quan đã bao gồm các điều kiện nêu trên được quy định tại Nghị định số 163/2018/NĐ-CP ngày 04/12/2018 quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

Các đại biểu Quốc hội nhấn nút biểu quyết thông qua Luật Doanh nghiệp (sửa đổi).

Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Để linh hoạt trong triển khai, thực hiện, hiện nay điều kiện về chào bán trái phiếu riêng lẻ được quy định tại cấp Nghị định. Bên cạnh đó, quy định về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, thời gian tối thiểu giữa các đợt phát hành và thời gian hạn chế chuyển nhượng chỉ áp dụng đối với trái phiếu doanh nghiệp chuyển đổi riêng lẻ và trái phiếu doanh nghiệp kèm theo chứng quyền riêng lẻ, không phải điều kiện áp dụng chung cho các loại trái phiếu. Do đó, quy định tại điểm d khoản 3 Điều 128 của dự thảo Luật có dẫn chiếu đến “các điều kiện khác theo quy định của pháp luật có liên quan” được hiểu là đã bao gồm các điều kiện này theo quy định tại Luật Chứng khoán. Căn cứ quy định tại dự thảo Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán, Chính phủ đã và đang dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 163/2018/NĐ-CP, trong đó có quy định cụ thể về điều kiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp, để bảo đảm kiểm soát chặt chẽ việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

Về mối quan hệ giữa Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) và các luật có liên quan: Có ý kiến cho rằng, quy định về chuyển nhượng vốn góp giữa Luật Doanh nghiệp và Luật Hôn nhân và gia đình còn mâu thuẫn về quyền sở hữu đối với tài sản sở hữu chung. Do đó, đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định cụ thể về quyền sở hữu và quyền chuyển nhượng vốn góp tại dự thảo Luật.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Dự thảo Luật chỉ quy định việc chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn đối với cá nhân cho công ty. Đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sở hữu đất thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển nhượng sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty theo quy định của pháp luật (Điều 35). Do đó, khi thực hiện các thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn thì phải tuân thủ quy định bao gồm cả quy định về chuyển quyền sở hữu đối với tài sản có sở hữu chung, như quyền sử dụng đất, tài sản có đăng ký… Vì vậy, nội dung về chuyển quyền sở hữu đối với tài sản chung thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về dân sự và pháp luật khác có liên quan, không thuộc phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật.

Có ý kiến cho rằng, Bộ luật Dân sự quy định rõ hai cơ chế đại diện là đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền, tuy nhiên điểm e khoản 23 Điều 4 của dự thảo Luật lại sử dụng thuật ngữ “người đại diện”. Do đó, đề nghị làm rõ mối quan hệ giữa ba chế định về người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo ủy quyền và người đại diện để tránh xung đột pháp luật. Ủy ban Thường vụ xin tiếp thu, chỉnh sửa quy định tại điểm e khoản 23 Điều 4 của dự thảo Luật thành “người đại diện theo ủy quyền” như quy định của Luật hiện hành để bảo đảm tính thống nhất với Bộ luật Dân sự về chế định người đại diện theo ủy quyền.

Về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp (Điều 7 và Điều 8): Một số ý kiến cho rằng, khoản 1 Điều 7 quy định: “tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm” và điểm a khoản 1 Điều 27 Luật Doanh nghiệp năm 2014 có quy định: “ngành, nghề đăng ký kinh doanh không bị cấm đầu tư, kinh doanh”. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, doanh nghiệp vẫn phải đăng ký chi tiết những ngành, nghề đăng ký kinh doanh với Cơ quan đăng ký kinh doanh. Do đó, đề nghị bổ sung nội dung này theo hướng doanh nghiệp không cần phải đăng ký ngành, nghề kinh doanh mà pháp luật không quy định phải có điều kiện.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Việc quy định doanh nghiệp gửi thông tin về ngành, nghề kinh doanh cho Cơ quan đăng ký kinh doanh không hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp được quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Việc gửi thông tin này chỉ là thủ tục thông báo cho Cơ quan đăng ký kinh doanh để ghi nhận thông tin về doanh nghiệp vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp mà không phải là thủ tục đăng ký ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa, quy định này cũng là cơ sở để cơ quan thuế phân cấp quản lý về thuế và xác định mức ưu đãi thuế cho doanh nghiệp.

Có ý kiến đề nghị bổ sung một khoản tại Điều 8 quy định về nghĩa vụ của doanh nghiệp, cụ thể như sau: “Trường hợp doanh nghiệp có dự án sử dụng đất tại đơn vị hành chính cấp tỉnh khác nơi có trụ sở chính thì phải thành lập pháp nhân và thực hiện nghĩa vụ kê khai nộp thuế tại khu vực đó” nhằm bảo đảm nguồn lực cho địa phương nơi có dự án sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và bảo đảm đồng bộ với Luật Quản lý thuế.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp và Luật Doanh nghiệp là không hạn chế các doanh nghiệp trong lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh và không hạn chế phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam và quốc tế. Việc lựa chọn hình thức kinh doanh phù hợp là quyền của doanh nghiệp tùy theo nhu cầu và điều kiện kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp. Trường hợp, doanh nghiệp có dự án sử dụng đất tại đơn vị hành chính cấp tỉnh khác với nơi có trụ sở chính thì doanh nghiệp thực hiện trình tự, thủ tục theo pháp luật về đầu tư, đất đai… mà không bắt buộc thành lập một pháp nhân mới. Do đó, không nên có quy định hạn chế hoặc yêu cầu doanh nghiệp phải thành lập pháp nhân mới khi kinh doanh ngoài phạm vi địa phương nơi mà doanh nghiệp đặt trụ sở chính.

Về người đại diện theo pháp luật (Điều 12): Có ý kiến cho rằng, để môi trường kinh doanh công khai, minh bạch trong công tác quản lý và giao dịch với khách hàng thuận lợi, đáp ứng đầy đủ thông tin cho khách hàng, đề nghị bổ sung quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải báo cáo thay đổi thông tin của người quản lý doanh nghiệp.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: các chức danh (chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên công ty TNHH, thành viên công ty hợp danh, chủ tịch công ty, thành viên HĐTV và người đại diện theo pháp luật…) đều được đăng ký thay đổi và ghi nhận tại Cơ quan đăng ký kinh doanh. Đối với thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc (hoặc Tổng giám đốc) nếu không phải là cổ đông, thành viên công ty thì là người được thuê để điều hành công ty và phải chịu trách nhiệm cá nhân trước công ty. Đối với bên thứ 3 thì người đại diện theo pháp luật sẽ nhân danh công ty thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Việc đăng ký thông tin đối với thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc (hoặc Tổng giám đốc) không có ý nghĩa về quản lý nhà nước mà chỉ có ý nghĩa đối với chính doanh nghiệp đó. Do đó, đây là việc nội bộ của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, việc thay đổi người quản lý doanh nghiệp thường xuyên xảy ra, việc yêu cầu doanh nghiệp phải báo cáo thay đổi thông tin với các đối tượng này chỉ làm phát sinh thêm thủ tục hành chính, thời gian của doanh nghiệp. Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho giữ như dự thảo Luật.

Có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung tại khoản 6 Điều 12 đối với Công ty TNHH một thành viên nếu chủ sở hữu là cá nhân, đồng thời là người đại diện doanh nghiệp theo pháp luật của công ty chết, mất tích, bị tạm giam thì ai sẽ là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Điều 78 đã quy định về việc thực hiện quyền của chủ sở hữu công ty trong một số trường hợp đặc biệt, theo đó quy định cụ thể việc thực hiện quyền trong các trường hợp chủ sở hữu công ty bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, chết, mất tích. Như vậy, dự thảo Luật đã có quy định cụ thể tại Điều 78 như ý kiến của ĐBQH.

Về quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp và quản lý doanh nghiệp (Điều 17): Có ý kiến cho rằng, dự thảo Luật đã đưa ra 7 nhóm đối tượng không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp, về cơ bản là đầy đủ. Tuy nhiên, đề nghị bổ sung thêm đối tượng về các pháp nhân thương mại vi phạm theo quyết định của Tòa án.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu, bổ sung đối tượng: “Tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự” tại điểm g khoản 2 Điều 17 để phù hợp với quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Điều 33 và Điều 80).

Có ý kiến đề nghị chỉnh sửa quy định “Người chưa thành niên” thành “Người chưa đủ 15 tuổi”  (điểm đ khoản 2) vì theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: “Độ tuổi lao động tối thiểu của người lao động là đủ 15 tuổi”. Như vậy, người đủ 15 tuổi là người đủ tuổi lao động tối thiểu theo luật định nên có thể được thành lập doanh nghiệp và quản lý doanh nghiệp.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Việc xác định độ tuổi quản lý, điều hành doanh nghiệp cần căn cứ vào năng lực hành vi dân sự, Bộ luật Dân sự quy định chỉ người từ đủ 18 tuổi trở lên mới đủ năng lực hành vi dân sự. Hơn nữa, các giao dịch bất động sản và động sản có đăng ký của người từ 15 -18 tuổi thì phải có người giám hộ (Điều 21 của Bộ luật Dân sự). Như vậy, nếu người từ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi làm người quản lý, điều hành doanh nghiệp thì phải có người giám hộ tham dự các cuộc họp và tham gia vào các quyết định của Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị. Điều này sẽ tạo ra sự phức tạp trong hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình với các giao dịch do người dưới 18 tuổi thực hiện, bố mẹ phải chịu trách nhiệm liên đới, điều này là không bảo đảm sự độc lập về tài sản của pháp nhân.

Ngoài ra, việc mở rộng nhóm đối tượng từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi được tham gia thành lập và quản lý doanh nghiệp cần phải được xem xét, đánh giá thận trọng, tác động sâu rộng đối với hàng trăm ngàn doanh nghiệp mà hiện nay chưa có đánh giá tác động chính sách đối với nhóm đối tượng này. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho giữ như dự thảo Luật.

Về trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp (Điều 26): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về hồ sơ đăng ký doanh nghiệp phải có đầy đủ giấy tờ chứng minh trụ sở doanh nghiệp thuộc sở hữu của doanh nghiệp hoặc có hợp đồng thuê mướn địa điểm làm trụ sở hợp pháp. Đồng thời, bổ sung quy định về trách nhiệm của các ngành chức năng trong việc kiểm chứng thông tin đăng ký doanh nghiệp và chế tài xử lý đối với các đối tượng liên quan khi để xảy ra việc sai phạm như việc kê khai giả…

Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Việc bổ sung quy định như trên sẽ làm phát sinh thêm thủ tục hành chính, tạo gánh nặng hành chính trong gia nhập thị trường cho đại đa số người thành lập doanh nghiệp. Hơn nữa, nếu yêu cầu doanh nghiệp phải có giấy tờ chứng minh trụ sở chính của doanh nghiệp sẽ đi ngược với xu hướng về cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh, thủ tục hành chính và định hướng thay đổi phương thức quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Do đó, việc kiểm soát các hiện tượng nêu trên chỉ có thể được thực hiện một cách có hiệu quả thông qua hậu kiểm.

Về trách nhiệm của các ngành chức năng trong việc kiểm chứng thông tin đăng ký doanh nghiệp và chế tài xử lý đối với các đối tượng liên quan khi để xảy ra việc sai phạm, Điều 216 của dự thảo Luật đã quy định thẩm quyền của Cơ quan đăng ký kinh doanh về quyền kiểm tra nội dung đăng ký kinh doanh, xử lý vi phạm các quy định về đăng ký doanh nghiệp và thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

Có ý kiến cho rằng, do chưa có quy định cụ thể chi tiết về trình tự, thủ tục tiếp nhận và thu phí đăng ký doanh nghiệp đối với trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính, nên các phòng đăng ký kinh doanh ở nhiều địa phương còn rất lúng túng và cách áp dụng khác nhau. Do vậy, đề nghị bổ sung quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tiếp nhận và thu phí đăng ký doanh nghiệp đối với trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính tại Điều 26.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Dự thảo Luật chỉ quy định nguyên tắc chung và giao Chính phủ quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục, liên thông trong đăng ký doanh nghiệp (khoản 6). Chính phủ sẽ ban hành văn bản dưới luật quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tiếp nhận đối với trường hợp nộp hồ sơ qua dịch vụ bưu chính tại Điều 26 của dự thảo Luật. Đồng thời, việc thu phí đăng ký doanh nghiệp được thực hiện theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí (điểm đ khoản 1 Điều 27).

Về trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp (Điều 208): Có ý đề nghị sửa điểm b khoản 5 Điều 208 như sau: “Nợ xấu có tài sản bảo đảm và nghĩa vụ trả nợ thuế” để phù hợp với quy định tại Điều 12 của Nghị quyết số 42/2017/QH14 Về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Nghị quyết số 42/2017/QH14 Về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng chỉ quy định mang tính thí điểm một số chính sách về xử lý nợ xấu và có thời hạn thực hiện trong thời hạn 05 năm kể từ ngày có hiệu lực thi hành (đến tháng 08/2022). Sau quá trình thực hiện thí điểm, Chính phủ sẽ tổng kết, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết này, trên cơ sở đó mới có đủ cơ sở để cụ thể hóa vào trong Luật. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho giữ như dự thảo Luật.

Một số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung doanh nghiệp có quyền thỏa thuận với chủ nợ và các chủ thể có liên quan về nghĩa vụ trả nợ, về cách thức trả nợ, thời hạn trả nợ để phù hợp và đáp ứng yêu cầu thực tiễn, đồng thời tạo điều kiện linh động cho doanh nghiệp trong quá trình tổ chức triển khai trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp để tạo sự chủ động trong giải quyết các món nợ của doanh nghiệp bằng phương pháp thỏa thuận.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Việc thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp khi doanh nghiệp giải thể được thực hiện theo trình tự quy định tại khoản 5 Điều 208; theo quy định tại khoản 2 Điều 209 thì “Trường hợp doanh nghiệp còn nghĩa vụ tài chính chưa thanh toán thì phải đồng thời gửi kèm theo nghị quyết, quyết định giải thể của doanh nghiệp phương án giải quyết nợ đến các chủ nợ, người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan”. Theo các quy định này, doanh nghiệp vẫn có quyền chủ động trong phương án giải quyết các khoản nợ của mình; việc thanh toán nợ bao gồm cả việc thỏa thuận với các chủ nợ và các bên liên quan. Như vậy, nội hàm của quy định tại dự thảo Luật đã thể hiện như ý kiến của ĐBQH.

Về trách nhiệm của Cơ quan đăng ký kinh doanh (Điều 216): Có ý kiến đề nghị xem xét bổ sung quy định Cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc việc góp vốn điều lệ và điều chỉnh đăng ký vốn điều lệ để khắc phục tình trạng kê khai khống vốn điều lệ.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Điều 216 đã quy định quyền của Cơ quan đăng ký kinh doanh trong việc yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về việc tuân thủ các quy định của Luật này khi xét thấy cần thiết và xử lý vi phạm các quy định về đăng ký doanh nghiệp theo quy định của pháp luật (trong đó có nội dung về vốn điều lệ). Hơn nữa, Điều 68 và Điều 87 cũng quy định Cơ quan đăng ký kinh doanh phải cập nhật thông tin về việc tăng hoặc giảm vốn điều lệ trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo của doanh nghiệp về việc thay đổi vốn điều lệ (trong đó có trường hợp giảm vốn do không được các thành viên thanh toán đầy đủ và đúng hạn). Như vậy, dự thảo Luật đã có quy định cụ thể tại các điều 68, 87 và 216 như ý kiến của ĐBQH.

Có ý kiến đề nghị làm rõ nội dung không chịu trách nhiệm về vi phạm của doanh nghiệp xảy ra sau đăng ký doanh nghiệp trong trường hợp nào đối với quy định: “Cơ quan đăng ký kinh doanh chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, không chịu trách nhiệm về những vi phạm của doanh nghiệp xảy ra trước và sau đăng ký doanh nghiệp” (điểm đ khoản 1 Điều 216).

Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Một trong những nguyên tắc trong đăng ký kinh doanh là doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực đối với các thông tin mà mình đăng ký. Cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ chịu trách nhiệm về tính hợp lệ đối với hồ sơ đăng ký doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp vi phạm sau khi được thành lập và trong quá trình hoạt động sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Về một số nội dung cụ thể khác: Có ý kiến đề nghị bổ sung khái niệm tại Điều 4 về “nhóm công ty”. Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo: Nhóm công ty không phải là chủ thể pháp lý mà chỉ là một tập hợp các công ty có quan hệ với nhau thông qua sở hữu cổ phần, phần vốn góp (ví dụ như tập đoàn kinh tế, tổng công ty). Hơn nữa, nhóm công ty không phải là một loại hình doanh nghiệp, không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký thành lập theo quy định của Luật, do vậy không cần thiết phải bổ sung khái niệm về nhóm công ty vào dự thảo Luật; đồng thời quy định về nhóm công ty đã được làm rõ trong dự thảo Luật (Chương VIII). Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định tại khoản 9 Điều 53 về việc thành viên công ty là cá nhân bị Tòa án cấm hành nghề, làm công việc nhất định thì thành viên đó phải chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp của mình.

Thường trực Ủy ban Kinh tế xin tiếp thu, bỏ quy định việc thành viên công ty là cá nhân bị Tòa án cấm hành nghề, làm công việc nhất định thì thành viên đó “phải chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp của mình” để bảo đảm quyền sở hữu đối với tài sản của cá nhân theo đúng tinh thần của Bộ luật Dân sự. Có ý kiến cho rằng, quy định tại Điều 103 của dự thảo Luật thì Ban kiểm soát có thể chỉ bao gồm 01 người, đây là quy định mới so với Luật hiện hành. Tuy nhiên, dự thảo Luật chưa quy định về cơ chế làm việc của Ban kiểm soát trong trường hợp chỉ có 01 người. Đề nghị nghiên cứu để bổ sung quy định này.

Thường trực Ủy ban Kinh tế xin tiếp thu, bổ sung quy định về trường hợp Ban kiểm soát chỉ có 01 Kiểm soát viên thì Kiểm soát viên đó đồng thời là Trưởng Ban kiểm soát và phải đáp ứng tiêu chuẩn của Trưởng Ban kiểm soát tại khoản 1 Điều 103 của dự thảo Luật. Có ý kiến cho rằng, theo quy định tại Điều 47 và Điều 113 thì số cổ phần chưa thanh toán được coi là cổ phần chưa bán và Hội đồng quản trị có quyền bán. Đề nghị làm rõ quy định này và cân nhắc sửa đổi như quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Cổ phần, phần góp vốn chưa góp hoặc chưa thanh toán đủ là của doanh nghiệp chứ không phải là của thành viên hay cổ đông của công ty. Theo quy định của dự thảo Luật, Hội đồng thành viên và Hội đồng quản trị có quyền bán các cổ phần chưa thanh toán này mà không phải thực hiện thêm thủ tục chào bán.

Có ý kiến cho rằng, khoản 2 Điều 156 quy định công ty đại chúng thì Chủ tịch Hội đồng quản trị không được kiêm Giám đốc, Tổng giám đốc, tuy nhiên Luật Doanh nghiệp hiện hành quy định Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể kiêm giám đốc và tổng giám đốc. Thực tế trong thời gian qua, thực hiện quy định này đã có hiệu quả cao trong công tác điều hành, quản lý và tổ chức hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, đề nghị giữ như quy định của Luật hiện hành, giao cho cổ đông quyền tự quyết định mô hình điều hành, Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể kiêm Giám đốc và Tổng giám đốc.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo: Quy định như dự thảo Luật nhằm hạn chế xung đột lợi ích, hạn chế tập quyền, hạn chế việc cổ đông lớn thâu tóm quyền lực trong công ty mà có thể gây ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều cổ đông khác. Đồng thời, quy định này phù hợp theo thông lệ tốt về quản trị công ty của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD).

Có ý kiến đề nghị nghiên cứu tính tương thích của quy định tại điểm c khoản 1 Điều 177 và điểm a khoản 2 Điều 187; làm rõ và thống nhất về trách nhiệm tài sản của thành viên góp vốn công ty hợp danh. Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu, chỉnh sửa nội dung quy định tại Điều 177 và Điều 187 theo hướng quy định về trách nhiệm tài sản của thành viên góp vốn công ty hợp danh phải chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp.

Có ý kiến đề nghị bổ sung vào Điều 207 quy định loại trừ trường hợp giải thể do bị thu hồi Giấy chứng nhận doanh nghiệp để phù hợp với quy định của Luật Quản lý thuế. Thường trực Ủy ban Kinh tế xin tiếp thu, theo quy định tại khoản 2 Điều 125 của Luật Quản lý thuế, việc thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trong trường hợp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế không dẫn đến việc giải thể doanh nghiệp. Do đó, để bảo đảm tính đồng bộ với quy định của Luật Quản lý thuế, điểm d khoản 1 Điều 207 của dự thảo Luật tiếp thu, chỉnh sửa như sau: “Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường hợp Luật Quản lý thuế có quy định khác”.

Ngoài những nội dung nêu trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra, Cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan tiếp thu, chỉnh lý về kỹ thuật văn bản; trình Quốc hội xem xét, quyết định./.

Bích Lan-Hoàng Quỳnh

Theo Cổng thông tin điện tử Quốc hội

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *