THẨM QUYỀN CHẤP THUẬN CHỦ TRƯƠNG ĐẦU TƯ DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH LUẬT ĐẦU TƯ 2014 VỚI LUẬT ĐẦU TƯ

Photo 1534951009808 766178b47a4f 1 1

Luật đầu tư 2014 ra đời cách đây 06 năm đã “cởi bỏ nút thắt” quan trọng để các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào “sân chơi” của thị trường Việt Nam. Góp phần xoá bỏ rào cản trong hoạt động đầu tư, kinh doanh không phù hợp với kinh tế thị trường và cam kết hội nhập của Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng ngày càng thuận lợi, minh bạch và bình đẳng giữa các nhà đầu tư, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.[1]

Sau 06 năm áp dụng, luật đầu từ 2014 đến nay đã trở nên “chật hẹp”, chưa bắt kịp hơi thở của thị trường, chưa đón đầu được làn sóng đầu tư mới trong thời gian tới. Một trong những điều trăn trở của doanh nghiệp khi áp dụng luật đầu tư 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành đó là xác định thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc Hội, Thủ tướng Chính Phủ và Uỷ Ban nhân dân cấp tỉnh để nộp hồ sơ đúng chỗ.

Photo 1534951009808 766178b47a4f 1

Theo quy định của Luật đầu tư 2020 tại các Điều 30, 31,32 thì:

  1. Thm quyn chp thun ch trương đầu tư ca Quc hi (Điều 30)

Thứ nhất, Luật đầu tư 2020 lược b nhng d án thuc thm quyn quyết định ch trương đầu tư ca Quc hi theo pháp lut v đầu tư công. Thực tế, các dự án này đã được quy định trong Luật đầu tư Công năm 2019. Cụ thể: “Khoản 1, Điu 17 có quy định Quc hi quyết định ch trương đầu tư chương trình mc tiêu quc gia và D án quan trng quc gia.”  Các nhà lập pháp đã tách bạch chức năng quyết định chủ trương đầu tư công với thẩm quyền chấp thuận Dự án đầu tư của Quốc hội.

Th hai, Luật đầu tư 2020 loi b các d án có kh năng nh hưởng nghiêm trng đến môi trường mà phi chuyn mc đích s dng đất vườn quc gia, khu bo tn thiên nhiên, khu bo v cnh quan, khu rng nghiên cu, thc nghim khoa hc. Quốc hội chỉ chấp thuận đầu tư các dự án đầu tư có yêu cầu “chuyển mục đích sử dụng đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng hộ biên giới từ 50ha trở lên, rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay và rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển từ 500 ha trở lên, rừng sản xuất từ 1.000 ha trở lên.

 Vấn đề đặt ra là, liệu nhà làm luật loại bỏ các dự án nói trên là do Quốc hội không cho phép thực hiện nữa hay vì lý do nào khác? Nếu nhà đầu tư vẫn muốn thực hiện các dự án trên thì phải xin chấp thuận chủ trương ở đâu? Thủ tục thế nào? Tìm hiểu các quy định của Luật Lâm nghiệp 2017 mới thấy, thẩm quyền của Quốc hội theo Khoản 1 Điều 20 không có gì khác với K1 Điều 30 Luật đầu tư 2020. Tiếp theo các Khoản 2, 3 của Điều 20 Luật Lâm nghiệp 2017 cũng không thấy nhắc đến các dự án bị loại bỏ nói trên.  

Từ đó cho thấy các dự án có khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường mà phải chuyển mục đích sử dụng đất vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học được xem là vùng cấm, không được cấp phép đầu tư.

  1. Thm quyn chp thun ch trương đầu tư ca Chính phủ (Điều 31)

Thứ nhất, Điều 31 Luật đầu tư 2020 cũng loại bỏ các dự án đầu tư Công ra khỏi phạm vị thẩm quyền chấp thuận dự án đầu tư của Chính phủ. Nguyên nhân bởi vì đã có luật đầu tư công 2019 quy định rõ ràng các dự án đầu tư công mà Chính phủ có quyền quyết định. Việc tách ra như thế cũng không nằm ngoài mục đích minh thị rạch ròi cho nhà đầu tư, tránh dẫn chiếu chéo nhưng mang tính chung chung của Luật đầu tư 2014. Qua đó cũng cho thấy vai trò làm luật ngày một “chuyên môn hoá” của Quốc hội.

Thứ hai, khi tiếp cận thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ, chúng tôi nhận ra Thủ tướng không bị giới hạn bởi cách quy định “khái quát” của Luật đầu tư 2014 (Điều 31). Luật mới quy định cụ thể, chi tiết hơn. Thủ tướng chấp thuận chủ trương đầu tư xây dựng mới: cảng hàng không, sân bay; đường cất hạ cánh của cảng hàng không, sân bay; nhà ga hành khách của cảng hàng không quốc tế; nhà ga hàng hoá của cảng hàng không, sân bay có công suất từ 01triệu tấn/năm trở lê; Dự án đầu tư mới kinh doanh vận chuyển hành khách bằng đường hàng không.

Thoạt nhìn, dễ thấy luật trao nhiều quyền hơn cho Thủ tướng Chính Phủ. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng quy định quá chi tiết như trên sẽ gây lúng túng cho nhà đầu tư khi áp dụng. Chẳng hạn, một sân bay xây dựng mới sẽ có nhà ga hành khách của cảng hàng không quốc nội và quốc tế. Riêng cảng quốc tế do Thủ tướng quyết định chủ trương, vậy thì cảng quốc nội sẽ do chủ thể nào quyết định? Cùng một Dự án xây dựng cảng hàng không, nhà đầu tư phải “xin” mấy nơi mới thực hiện được thì quả là “nhiêu khê”. Theo quan điểm cá nhân tác giả, đây là bước giới hạn/cắt xén bớt thẩm quyền của Thủ tướng chứ không phải trao thêm quyền.

Thứ ba, đối với dự án đầu tư xây dựng cảng biển, Thủ tướng có quyền chấp thuận chủ trương đầu tư các dự án xây mới: Bến cảng, khu bến cảng thuộc cảng biển đặc biệt; bến cảng, khu bến cảng có quy mô đầu tư từ 2.300 tỷ đồng trở lên thuộc cảng biển loại I. So với cách quy định của Luật cũ, luật mới cụ thể và “định lượng” hơn nhiều, cũng dễ áp dụng hơn. Nói khác đi, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng gõ đúng “cửa” để xin dự án đầu tư. Với luật mới, chỉ cần xem lại “túi tiền” nhà đầu tư cũng biết ai là người có đủ thẩm quyền luật định để nộp hồ sơ.

Thứ tư, Thủ tướng còn được giao chấp thuận đối với các dự án như: Dự án đầu tư chế biến dầu khí, Dự án đầu tư xây dựng nhà ở (để bán, cho thuê, cho thuê mua), khu đô thị trong các trường hợp: dựa án đầu tư có quy mô sử dụng đất từ 50 ha trở lên hoặc có quy mô dưới 50ha nhưng quy mô dân số từ 15.000 người trở lên tại khu vực đô thị; dự án đầu tư có quy mô sử dụng đất từ 100ha trở lên hoặc có quy mô dưới 100ha nhưng quy mô dân số từ 10.000 người trở lên tại khu vực không phải là đô thị; dự án đầu tư không phân biệt quy mô diện tích đất, dân số thuộc phạm vi bảo vệ của di tích được cấp có thẩm quyền công nhận là di tích quốc gia, di tích quốc gia đặc biệt. Đối với lĩnh vực hoạt động kinh doanh đặt cược, casino, trừ kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài.

Thứ năm, Luật đầu tư 2020 loại bỏ các dự án phát triển khu chức năng trong khu kinh tế; loại bỏ dự án của nhà đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực kinh doanh vận tải biển, thành lập tổ chức khoa học và công nghệ, doanh nghiệp khoa học và công nghệ 100% vốn nước ngoài. Thủ tướng Chính phủ chỉ có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư đối với các dự án của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ viễn thông có hạ tầng, trồng rừng, xuất bản, báo chí.

Đồng thời, Luật đầu tư 2020 bổ sung trường hợp các dự án đầu tư đồng thời thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của từ 02 Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trở lên thì Thủ tướng Chính phủ có quyền quyết định.

  1. Thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (Điều 32)

Thứ nhất, Luật đầu tư 2020 sử dụng phương pháp loại trừ đối với thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của UBND cấp tỉnh. Cụ thể: “Ngoại trừ các dự án đầu tư do Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư, UBND cấp tỉnh có quyền chấp thuận chủ trương đối với các dự án quy định tại Điều 32 Luật đầu tư 2020.

 Thứ hai, Luật đầu tư 2020 loại bỏ các dự án mà chủ đầu tư được nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân không thuộc diện phải có văn bản chấp thuận của UBND cấp tỉnh theo quy định của pháp luật về đất đai.

 Thứ ba, Luật đầu tư 2020 bổ sung thêm thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư các dự án xây dựng nhà ở (để bán, cho thuê, cho thuê mua), khu đô thị trong các trường hợp: dự án đầu tư có quy mô sử dụng đất dưới 50 ha và có quy mô dân số dưới 15.000 người tại khu vực đô thị; dự án đầu tư có quy mô sử dụng đất dưới 100 ha và có quy mô dân số dưới 10.000 người tại khu vực không phải là đô thị; dự án đầu tư không phân biệt quy mô diện tích đất, dân số thuộc khu vực hạn chế phát triển hoặc nội đô lịch sử (được xác định trong đồ án quy hoạch đô thị) của đô thị loại đặc biệt;

 Thứ tư, Luật năm 2020 còn bổ sung thêm một số thẩm quyền của UBND cấp tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư, bao gồm: Các dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh sân gôn (golf); các dự án đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện tại đảo và xã, phường, thị trấn biên giới; xã, phường, thị trấn ven biển; khu vực khác có ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh.

So với Điều 32 Luật đầu tư 2014, Luật mới trao nhiều thẩm quyền hơn cho UBND cấp tỉnh. Điều này là phù hợp với cơ chế phân cấp, trao quyền quản lý đối với các cơ quan hành chính nhà nước. Để đáp ứng sự “thiếu hụt” quy định của Luật đầu tư 2020, Khoản 3 Điều 32 đã bổ sung bằng cách trao cho Chính phủ quy định chi tiết, cụ thể hơn để áp dụng.

Từ những phân tích trên, chúng tôi rút ra một số vấn đề trong quy định của Luật đầu tư 2020 như sau:

Một là, Luật đầu tư 2020 bổ sung khái niệm “chấp thuận chủ trương đầu tư” để làm rõ mục đích, bản chất của việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận chủ trương thực hiện dự án (khoản 1 Điều 3).[2]

Hai là, Luật đầu tư 2020 quy định theo phương pháp loại trừ đối với các công việc của cấp trên không thực hiện, thì sẽ giao cho cấp dưới. Tuy nhiên, đây là hình thức loại trừ không đầy đủ. Dễ xảy ra trường hợp lúng túng khi áp dụng bởi nhà đầu tư “hoang mang” không biết nên “xin” chủ trương dự án ở đâu?

Ví dụ: Nếu lấy mốc là dự án đầu tư từ 2.300 tỉ trở lên đối với việc xây dựng khu bến cảng sẽ do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư, như vậy có thể hiểu là các dự án xây dựng bến cảng dưới 2.300 tỉ sẽ thuộc thẩm quyền của cơ quan khác, nhưng là cơ quan nào thì không thấy luật nhắc đến. Nếu theo cách hiểu của Luật đầu tư 2014, thì những gì Chính phủ không quy định sẽ được phân cấp lại cho UBND cấp tỉnh, thì Luật đầu tư 2020 lại tiếp thu nhưng không đầy đủ.

Ba là, Luật đầu tư 2020 quy định theo hướng chi tiết hoá, cụ thể hoá hơn luật 2014. Để bù đắp thiếu sót chưa được liệt kê, luật “bỏ ngỏ” một phương án để các văn bản hướng dẫn quy định thêm. Đây là cách thực làm luật khá truyền thống, ưu điểm là luật không quá “cồng kềnh” nhưng nhược điểm lớn là doanh nghiệp chậm áp dụng vì loay hoay “chờ” hướng dẫn. Để không bị động, đa số các doanh nghiệp chọn phương án “hỏi” để được giải đáp thay vì chờ.

Bốn là, Luật đầu tư 2020 biểu hiện nét chuyên môn hoá của tư duy pháp lý. Nói rõ hơn, lĩnh vực nào thì sẽ quy định thẩm quyền chủ thể trong lĩnh vực đấy. Chẳng hạn, đầu tư công thì quy định riêng thẩm quyền, còn đầu tư thông thường sẽ có quy định riêng.

Năm là, rất cần thiết ban hành quy định hướng dẫn chi tiết Điều 32 Luật đầu tư 2020 để các nhà đầu tư có cơ sở chuẩn bị hồ sơ cho các dự án sắp tới.

 ThS. Võ Hồng Tú  – CEO MINH TU LAW

Xem thêm: Thủ tục chấm dứt dự án đầu tư mới nhất 2020

Xem thêm: Những điểm mới nổi bật tại Luật đầu tư 2020 áp dụng 2021

[1] Tờ trình số 440/TTr-CP ngày 4/10/2019 của Chính Phủ về Luật Đầu tư (sửa đổi)

[2] Tờ trình số 440/TTr-CP ngày 4/10/2019 của Chính Phủ về Luật Đầu tư (sửa đổi)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *